ĐẶC ĐIỂM HỌC TẬP CỦA TUỔI THIẾU NIÊN (HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ)
A.
GIỚI THIỆU TỐNG QUAN
HS THCS có “Mục tiêu kép" như Luật Giáo dục quy định: “Giáo
dục trung học cơ sở nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của giáo
dục tiểu học; có học vấn phổ thông với trình độ cơ sở và những hiểu biết ban
đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp, học nghề hoặc
đi vào cuộc sống lao động" (mục 3, Điều 27).
Hoạt động học
của HS THCS là hoạt động cơ bản bắt đầu phát triển tiếp cận trình độ lí thuyết,
lí thuyết gắn với thực hành - “Học đi đôi với hành" theo mục tiêu giáo dục
toàn diện. Kết thúc cấp THCS HS có được hành trang cần thiết chuẩn bị trở thành
một công dân bình thường trong xã hội hiện đại.
Module này góp phần gợi mở giúp GV tự học, tự Bồi
dưỡng để có khả năng hiểu biết thêm về lí luận và vận dụng vào thực tiến dạy
học và THCS.
B. MỤC TIÊU
Sau khi tham gia bồi dưỡng, HV có được nhận thức, kĩ năng và
thái độ:
Nắm được đặc
điểm của hoạt động dạy và hoạt động học ở THCS.
Có kĩ năng vận dụng những hiểu biết về chuyên
môn, nghiệp vụ để đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở THCS.
Có ý thức hơn trong việc giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, nâng cao
tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nghề và tình cảm yêu quý, tôn trọng HS - thế hệ
tương lai của đất nước.
Hoạt động 1: Tìm hiểu hoạt động học của học
sinh trung học cơ sở
Dựa vào hiểu biết và kinh nghiệm dạy học của bản thân, bạn hãy
viết ra suy nghĩ của mình về:
I.
Đặc điểm tâm, sinh lí
của HS THCS:
HS THCS có tuổi đời từ 11 đến 15 tuổi, tuổi có biến động lớn và
có ý nghĩa đặc biệt của đời người với một số đặc điểm sau:
Cơ thể
phát triển tuy chưa thật hoàn thiện nhưng các em đã có sức lực khá mạnh mẽ (từ
xa xưa đã có câu: “gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu").
Tuổi dậy
thì (biểu hiện nam tính và nữ tính).
Hoạt động
giao tiếp là hoạt động chú đạo, trước hết là với HS cùng lứa. Qua đó hình thành
tình bạn của tuổi thiếu niên (tình bạn của HS các lớp đầu cấp thường là tình
bạn cùng giới đến các lớp cuối cấp xuất hiện tình bạn khác giới; có hoạt động
học (học- hành) là hoạt động cơ bản.
Tuổi vị
thành niên: HS THCS có độ tuổi từ 11 đến 16, các em không còn là trẻ con nhưng
cũng chưa phải là người lớn, là tuổi thiếu niên và thanh niên đã có sự phát
triển về sinh lí và tâm lí, các em thích làm người lớn nhưng chưa ý thức được
đầy đủ, vị thế xã hội của các em là vị thành niên. Trong nền văn hoá của dân
ta, từ xa xưa đã có quan niệm “Con dại cái mang" và người dân thường cư xử
với nhau như thế. Thời nay, trong giáo dục, GV THCS cũng nên có quan niệm và
cách ứng xử “HS mắc khuyết điểm thì GV cũng có phần trách nhiệm".
1.
Về hoạt động tập thể của HS THCS:
Các hoạt động đoàn thể: HS THCS thuộc lứa tuổi thiếu niên, ngoài
hoạt động học - hành là hoạt động cơ bản các em còn có các hoạt động khác như
sinh hoat Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ chí Minh theo các hình thức: nghi thức
Đội, hoạt động văn thể, giao lưu tâm tình chia sẻ giúp đỡ lần nhau trong học
tập, sinh hoạt, kể cả những vấn để tế nhị ở tuổi dậy thì, tuổi vị thành niên,
gia cảnh.
Nếu như ở lứa tuổi HS tiểu học, các em thần tượng thầy giáo, cô
giáo của mình, thì lên cấp THCS do trình độ hiểu biết cao hơn, đặc điểm tâm
sinh lí phát triển hơn nên các em không cón giữ thần tượng như trước mà đã có
sự định hướng giá trị sống, những giá trị mà các em hướng tới, như tình bạn,
khả năng cá nhân (muốn thể hiện mình, không còn “ngoan ngoãn" kiểu trẻ
thơ).
Các hoạt động công ích xã hội: giúp đỡ người
khó khăn, làm từ thiện, tham gia gìn giữ, tôn tạo các khu di tích, công
viên, nơi sinh hoat công cộng.
Các hoạt động tập thể của HS THCS
thường do các em tự tổ chức thực hiện, GV chỉ hướng dẫn trợ giúp từ khâu xây
dựng kế hoạch đến điều kiện triển khai thực hiện, cách thực thực hiện.
2.
Về tâm lí:
Tự coi mình là
người lớn nhưng chưa thật trưởng thành, thường vẫn bị người lớn nhìn nhận là
“trẻ con", dẫn đến tình trạng có “rào cản" về sự chia sẻ giữa HS THCS
và người lớn, trước hết là các bậc cha me.
Tình cảm của HS
THCS phát triển phong phú, trước hết là tình bạn cùng trang lứa, các em nhạy
cảm, sẵn sàng cảm thông chia sẻ với bạn và muốn được bạn cảm thông chia sẻ với
mình, điều mà các em cón ít nhận được từ các bậc cha mẹ, GV.
Nhận thức của
HS THCS phát triển khá cao, đáng chú ý là sự phát triển tư duy khoa học (tư duy
lí luận), tính trừu tượng và tính lí luận trong nhận thức.Ý chí của HS THCS
phát triển khá cao, các em đã có sức mạnh về thể chất và tinh thần để có thể
vượt qua những khó khăn trở ngại trong học tập và trong cuộc sống.
Điều đáng chú ý trong dạy học và giáo dục HS THCS là độ trưởng
thành về nhân cách và vị thế xã hội của các em. Trong nền văn hoá của dân tộc
ta có câu: “Con dại cái mang" - được vận dụng coi như là lẽ sống của người
dân trong cách ứng xử với trẻ nhỏ trong cộng đồng xã hội. Trẻ vị thành niên -
HS THCS chưa hoàn thiện về nhân cách, chưa đủ độ chín như một công dân để chịu
trách nhiệm hoàn toàn về hành vi lối sống của mình nên nhà trường và gia đình
vẫn có phần trách nhiệm đối với các em
II. HOẠT ĐỘNG CHỦ ĐẠO CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ
SỞ.
- Theo các nhà lâm lí học, HS THCS có hoạt động giao tiếp (giao
lưu), trước hết là với bạn bè cùng trang lứa là hoạt động chú đạo. Theo nhà tâm
lí học A.H. Leônchep thì hoạt động chủ đạo là hoạt động có một số dấu hiệu
chính sau đây:
- Hoạt động lần
đầu tiên xuất hiện ở một giai đoạn phát triển của đời người với đúng nghĩa của
nó cả về nội dung và phương thức thực hiện.
- Qua hoạt động
này tạo ra cái mới trong tâm lí của HS.
-Trong lòng của
hoạt động này có mầm mống của hoạt động chú đạo mới.
Một số nhà chuyên môn cho rằng HS THCS có hai hoạt động chú đạo,
đó là hoạt động giao tiếp và hoạt động học tập. Một số nhà chuyên môn khác lai
coi hoạt động học tập của HS THCS là hoạt động cơ bản, còn hoat động chủ đạo là
hoạt động giao tiếp.
Dù quan niệm có phần khác nhau nhưng các nhà giáo, nhà sư phạm
đều có sự định hướng chung trong hành động. Đó là trách nhiệm đối với HS, luôn
vì lợi ích học tập của các em “tất cả vì HS thân yêu"; đó là việc tổ chức
tốt hoạt động học tập cho HS THCS; đồng thời chú ý tổ chức, tạo điều kiện để HS
THCS được thực hiện hoat động giao tiếp lành mạnh. Đó là đặc điểm của hoạt động
dạy học ở cấp THCS.
1. . Hoạt động học tập
của học sinh trung học cơ sở.
Hoạt động học của HS THCS được kế thừa và phát triển phương thức
của hoạt động học- tập đã được định hình ở tiểu học, nhưng được phát triển theo
phuơng thức mới, đó là học - hành. Đến cấp THCS HS được học nhiều môn học,
thường mỗi môn có GV dạy liêng (GV chuyên trách môn học). Nhiều môn học,
chủ yếu là các môn khoa học tự nhiên như môn Vật lí, Hoá học, Sinh học... được
tổ chức dạy và học theo hướng gần với thực hành trong phòng học bộ môn (có tính
chất phòng thí nghiệm) theo cách thức: học lí thuyết rồi thực hành, thực nghiệm
để hiểu rõ hơn, nắm vững hơn về lí thuyết, cấp THCS là cấp học bắt đầu có tính
lí thuyết, đương nhiên vẫn cần có kĩ năng, vẫn áp dụng cả phương thức học - tập
(học gắn với luyện tập và luyện tập để học) đã hình thành được ở cẩp tiểu học.
Cấp THCS là cấp học có mục tiêu phổ cập giáo dục chung có tất cả
HS ở từng lớp, từng trường. Trình độ phổ cập chỉ là yêu cầu tối thiểu, bắt buộc
dành cho lứa tuổi THCS. Tuy nhiên mỗi HS, tuỳ thuộc vào khả năng riêng và điều
kiện mà mình đạt được kết quả có phần khác nhau, tối thiểu từ chuẩn phổ cập trở
lên.
Học- hành là phương thức học tập chủ đạo, phương thức đặc trưng
thực hiện hoạt động học của HS THCS. Phuơng thức chủ đạo hiện rõ ở hoạt động
học một số môn khoa học có tính thực hành, những môn học mà khi học điều gì thì
HS cần được làm thực nghiệm, thực hành - “Học đi đôi với hành", trước hết
để hiểu và nắm vững lí thuyết, kế đó là lĩnh hội phương pháp học tập, rồi dùng
lí thuyết và phương pháp học - hành đó để lĩnh hội kiến thức mới và vận dụng
những điều học được để học tiếp và để sống.
HS THCS đã lĩnh hội được phương thức học - tập, đang hình thành
phương thức học- hành. Đó là cơ sở để hình thành từng bước phuơng thức học mới
- tự học ở cấp độ ban đầu. Trên thực tế, khả năng tự học của con người đã
xuất hiện từ trước đó, kể cả ở người lớn chưa hề được qua nhà trường nhưng đó
chỉ là dạng tự học kiểu mò mẫm, kiểu “thử và sai", đó là cách tích
lũy kinh nghiệm qua trải nghiệm chứ chưa phải là phương thức “tự học" với
đúng nghĩa của thuật ngữ này.
2. Tổ chức hoạt động cho
học sinh THCS:
Đối với cấp Tiểu học, việc tổ chức hoạt động học cho HS được
diễn ra trong từng lớp học theo định mức đang hướng tới là khoảng 15 - 30 lớp
/trường, khoảng 20 - 30 HS /lớp và đưa trường lớp gần với khu dân và nơi ở của
HS.Việc tổ chức hoạt dộng học dành cho HS cấp THCS được thực hiện theo hướng
tập trung hơn, quy mô số lớp/trường và số HS/lớp lớn hơn để đáp ứng được hoạt
động dạy và học ở cấp học này. Đó là một số yêu cầu có tính đặc trưng đối với
cấp học, như:
GV được chuyên
môn hóa, thường chỉ dạy một môn học ở một số lóp trong cùng một khối lớp, hoặc
dạy một môn học ở các khối lớp khác nhau (do nhu cầu thực tế, hiện nay nhiều
nhà chuyên môn đang bàn tới việc đao tạo GVTHCS có khả nàng dạy hai hoặc ba môn
gần nhau). Trong trường cần có phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn.
HS đã lớn hơn,
có thể đến trường trong khoảng cách khoảng vài ba cây số (có một số HS đến
truờmg bằng đoạn đường xa hơn thế).
Hoạt động của
tổ chuyên môn có vai trò quan trọng trong hoạt động dạy và học theo phương châm
“Dạy tốt- học tốt".
HS THCS không phải chỉ học trong phòng học dành riêng cho lớp
mình mà nhiều bài học, tiết học phải được thực hiện trong phòng thí nghiệm,
phòng học bộ môn hoặc trên hiện trường như khu thí nghiệm thực hành về sinh
học, khu di tích lịch sử, bảo tăng lịch sử, sinh học... Những bài học này rất
có ích cả về kiên thức khoa học và kĩ năng thực hành, kĩ năng giao tiếp và hoạt
động nhóm.
Trong quá trình học tập để lĩnh hội tri thức, kĩ năng, hình
thành thái độ tương ứng, HS luôn cần sự hướng dẫn giảng giải của GV khi thì
trực tiếp (trực diện trên lớp), cũng có khi gián tiếp qua sách, tài liệu và các
phương tiện thu nhận thông tin và dạy học gián tiếp (thầy trực tiếp ). Những
phuơng pháp dạy học của GV và Theo đó là phuơng pháp học hành của HS như thế
nào là tuy thuộc vào nội dung bài học và điều kiện cụ thể. Đến trình độ này, HS
có thể làm việc cá nhân hoặc làm việc theo nhóm theo sự chỉ dẫn của GV và sự
hướng dẫn trong sách hoặc trong các tài liệu tham khảo hữu ích.
Có thể nói rằng, phương pháp giảng dạy của GV, Theo đó là phuơng
pháp thực hiện hoạt động học của HS phụ thuộc vào nội dung học tập và các điều
kiện- phương tiện phục vụ cho hoạt động dạy và học, phụ thuộc vào trình độ “tay
nghề" - chuyên môn và nghiệp vụ của GV. chính vì thế mà nhiều nhà chuyên
môn khẳng định vai trò quan trong của GV THCS - người quyết định chất lượng
giáo dục hay là quyết định sự thành bại của giáo dục.
Hoạt động học của HS THCS được GV tổ chức hướng dẫn theo các
phương pháp có thể là khá phong phú đa dạng, tuỳ thuộc vào nội dung và điều
kiện và có thể gọi bằng tên chung là phương pháp “Thầy' tổ chức - Trò hoạt
động" (được trình bày cụ thể ở hoạt động 2).
3. Tổ chức các hoạt động giáo dục cho
học sinh trung học cơ sở.
Đối với HS THCS, ngoài hoạt động học các em còn có nhu cầu lớn
về các hoạt động khác với nội dung phong phú, đa dạng. Các hoạt động giáo dục
đó tạo điều kiện để mỗi HS phát triển thể lực, phong phú về tâm hồn, đặc biệt
là hình thành ở các em định hướng giá trị - điều mà các em nhận thức, tìm kiếm,
thể hiện, nhìn nhận về minh, về người khác vầ về xã hội, trước hết là các giá
trị, như:
Giá trị có được
từ học tập: đó là những kiến thức cơ bản, những kĩ năng cơ bản, phương pháp học
tập khoa học.
- Giá trị về sự trưởng thành của bản thân: đó là sự hình
thành tư duy khoa học (tư duy lí luận), là những phẩm chất nhân cách chân
chính.
- Giá trị về sự ứng xử trong các mối quan hệ: đó là cách
ứng xử với tự nhiên, với xã hội theo cách thức khoa học đã học được, là tình
cảm đẹp với con người, trước hết là những người thân, như sự cảm thông chia sẻ,
là sự quan tâm chăm sóc người thân, là sự quan tâm giúp đỡ người khác khi cần
thiết trong hoàn cảnh có thể.
- Giá trị về sự nhận thức và tinh cảm của mình với gia
đình và xã hội với quê hương đất nước.
ĐÁNH GIÁ
Bạn hãy chia sẻ với đồng nghiệp để thực hiện những yêu cầu sau:
1.
a. Trao đổi tìm hiểu về tuổi vị thành niên.
2.
b. Khảo sát tìm hiểu đặc điểm hoạt động học
của HS THCS.
3.
c. Thảo luận về thực trạng dạy và học ở
THCS.
4.
d. Đề xuất biện pháp tổ chức hoạt động học
dành cho HS THCS.
5.
e. Tìm hiểu, xác định những giá trị cuộc
sống phù hợp với lứa tuổi HS THCS mà nhà trường cần định hướng và có biện pháp
hình thành cho các em.
Hoạt động 2: Tìm hiểu công nghệ dạy học cấp
trung học cơ sở
Dựa vào hiểu biết và kinh nghiệm dạy học của bản thân, bạn hãy
viết ra suy nghĩ của mình về công nghệ dạy học theo những nội dung sau:
1.
a. Tại sao nói, dạy học ở THCS là nghề sử
dụng công nghệ dạy học?
* Dạy học ở THCS là nghề sử dụng công nghệ dạy học.
Nghề dạy học là nghề được thực hiện với con người được đào tạo
chuyên biệt có nội dung xác định, phương pháp hợp lí, quy trình chăt chẽ và
những điều kiện cần thiết khác tất cả đều hướng đạt mục tiêu giáo dục. Nghề dạy
học có công nghệ thực thi, công nghệ đó có ba đặc điểm chính như sau:
Công việc được chủ động tổ chức (tổ chức một cách tự giác). GV
được đào tạo chuyên ngành nào, trong năm học được phân công dạy ở khối lớp nào
(kể cả dạy môn thứ hai) đều được biết và nhận nhiệm vụ ngay từ đầu năm học; kế
hoạch dạy học của môn học đó cũng được định rõ cho mỗi năm học cùng với chương
trình, tài liệu, chuẩn kiến thức và kĩ năng và các điều kiện phục vụ cho hoạt
động dạy và học. Nghĩa là GV có thể hình dung được công việc của mình trong cả
năm học.
Công việc được chủ động kiểm soát cả quá trình và kết quả đầu
vào, đầu ra. Việc dạy học của GV là công việc mà họ biết được đầu vào hiện có
và có thể có, biết được kết quả giảng dạy (kết quả học tập của từng HS) qua
từng tiết học cả quá trình học và định kì (giữa học kì, cuối học kì, cả năm
học) bằng cách tự theo dõi, tự kiểm tra đánh giá của GV, bằng cách tự nhận định
đánh giá của HS theo hướng dẫn của GV, bằng nhận xét của gia đình.
Nghề dạy học đuọc chuyển giao từ thế hệ trước sang thế hệ sau,
từ người này sang người khác.
Từ xa xưa đã hình thành các Cơ sở đào tạo GV- người làm nghề dạy
học, đó là trường sư phạm và các khoa sư phạm trong các trường cao đẳng đại học
đa ngành. Được đào tạo qua trường sư phạm, GV dạy môn học cụ thể nào đó ở bất
cứ trường lớp nào trên phạm vi cả nước đểu diễn ra theo bài bản, về cơ bản,
giống nhau về chương trình, phương pháp, phương thức, đặc biệt là về nghiệp vụ
sư phạm, chính vì lẽ đó mà Nhà nước có quy định bắt buộc đối với những người
làm nghề dạy học là ngoài trình độ chuyên môn cần phải có nghiệp vụ sư phạm, ví
dụ, những cử nhân toán học, sinh học... ở các cơ sở ngoài sư phạm (Đại học Tổng
hợp, Bách khoa...) nếu muổn làm nghề dạy học thì cần học bổ sung về nghiệp vụ
sư phạm để có chúng chỉ sư phạm. Đối với GV tiểu học thì cần thiết phải được
đào tạo chuyên khoa sư phạm tiểu học.
Theo truyền thống, dạy học chưa được coi là một công nghệ nhưng
là nghề đã được thể hiện như một công nghệ theo ba tiêu chí nêu trên, Theo đó
cũng có thể hiểu là công nghệ dạy học, công nghệ này hứng chủ yếu vào GV- đó là
công nghệ dạy học theo 5 bước lên lớp với lôgic hình thức khá chăt chẽ, đó là
các bước lên lớp: ổn định tổ chức; kiểm tra bài cũ; giảng bài mới; củng cổ bài;
ra bài tập về nhà.
Trong quá trình đổi mới hiện nay, việc dạy học
được hướng chủ yếu vào HS, coi HS là nhân vật trung tâm. Việc GV tổ chức cho HS
học tập với những điều kiện cần thiết có thể coi là công nghệ dạy học mới và có
thể hình dung qua bảng 1.
Công nghệ dạy học 5 bước lên lớp chủ yếu thuận theo lôgic hình
thức. Trong quá trình đó, HS luôn ở thế thụ động lệ thuộc vào GV theo kiểu
“thầy đọc - trò chép", “thày giảng- trò ghi nhớ". Công nghệ dạy học
mới theo lôgic biện chứng, tập trung vào bản chất của quá trình dạy và học đạt
tới mục tiêu của từng đơn vị nội dung cụ thể với từng thời gian sư phạm và cả
quá trình (học kì và cả năm học, cấp học).
Dù là phương pháp cũ hay phương pháp cải tiến, phương pháp đổi
mới, thì dạy học cũng là một nghề chuyên biệt có nội dung chuẩn mực, có
phương pháp và kĩ thuật thực hiện, có đầu vào và đầu ra được xác định và được
kiểm soát. Đó là công nghệ dạy học, nhưng là công nghệ khác với các công nghệ
của các ngành nghề khác, khác với các công nghệ sản xuất khác. Điểm khác biệt
đó thể hiện ở sản phẩm của công nghệ. Nếu như các công nghệ khác ở đầu ra đều
là những sản phẩm như nhau (hoàn toàn giổng nhau), nếu có nói mà có sản phẩm
nào đó không giống như mẫu thì sản phẩm đó bị loại (vì đó là phế phẩm), còn
trong công nghệ dạy học thì kết quả đầu ra là HS. Những HS này là những cá nhân
độc nhất vô nhị, những nhân cách như mục tiêu giáo dục hướng tới - tổi thiểu
đạt chuẩn, hay hạn dưới là chuẩn còn sự phát triển vượt trên chuẩn thì không
hạn chế đối với mọi HS. Như vậy, theo công nghệ dạy học thì HS của từng lớp
không phát triển đồng đều, đơn điệu như nhau mà là điều kiện để phát huy khả
năng, sờ truờng riêng của mỗi HS nhưng có bảo hiểm an toàn “van an toàn"
là chuẩn kiến thức và kĩ năng các môn học, là những yêu cầu tổi thiểu về các
hoạt động, các mặt giáo dục khác.
4- HS: là nhân vật trung tâm, là chủ thể giáo dục, tự biến đổi
chính bản thân mình theo hướng phát triển trong quá trình học tập và thực hiện
các hoạt động giáo dục. Tuy còn có ý kiến khác nhau về vị trí của HS trong
trường học nhưng dù quan niệm có khác nhau thì HS vẫn là mục tiêu giáo
dục, là lẽ tồn tại, lẽ sống của GV, của nhà trường.
+ GV là người tổ chức, giảng dạy, hướng dẫn HS thực hiện hoạt
động học, cụ thể hơn là học - hành và thực hiện các hoạt động giáo dục khác. GV
là người giữ vị trí then chốt, người quyết định sự thành bại của giáo dục
(quyết định chất lượng giáo dục). Vai trò, vị trí của GV không hề bị coi nhẹ mà
được nhận diện đúng giá trị đích thực - giá trị người thầy.
+ Ngoài HS và GV tuy không tham gia trực tiếp vào quá trình dạy
và học nhưng có tác động không nhỏ đến quá trình dạy và học ở nhà trường, quá
trình giáo dục HS ở nhà trường, gia đình và ngoài xã hội, đó là các bậc cha mẹ,
các nhà quản lí giáo dục, quản xã hội, các doanh nhân, các thành viên của các
tổ chức đoàn thể và các hội...
- Yếu tố thứ
hai: Mục tiêu giáo dục được cụ thể hoá cho từng môn học, lớp học và cả cấp học.
Mục tiêu này được định hình ở chuẩn kiến thức và kĩ năng các môn học, yêu cầu
tối thiểu các hoạt động giáo dục sau đó được sư phạm hoá dưới dạng SGK và các
tài liệu học tập.
- Yếu tố thứ
ba: Cơ sở vật chất- thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy học và các hoạt động
giáo dục khác.
- Yếu tổ thứ
tư: Các điều kiện khác phục vụ cho các hoạt động thực hiện mục tiêu giáo dục,
như môi truờng giáo dục và các điều kiện khác.
b.Trong các yếu
tố đầu vào, có những yếu tố tham gia trực tiếp, có yếu tố tham gia gián tiếp
vào quá trình dạy học và đều được xem xét theo các chuẩn mực nhất định - qua bộ
lọc tạo nên bởi các tiêu chí cụ thể (cột 2 trong bảng 1).
Trong hoàn cảnh hiện nay, các yếu tố đầu vầo của các trường, các
lớp không được đồng đều theo chuẩn mực nhất định, như trình độ HS khác nhau, cơ
sở vật chất - thiết bị khác nhau, môi trường giáo dục khác nhau và cả đội ngũ
GV của các trường cũng chưa đồng đều về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Trong các yếu tổ đầu vào thì yếu tố GV và H S, yếu tố về mục
tiêu, chương trình và tài liệu là yếu tố tuy không thay đổi được nhiều nhưng có
thể có các biện pháp tác động, sử dụng thích hợp, ví dụ như:
- Có thể để ra biện pháp quản lí thích hợp nhằm phát huy được
nội lực, bồi dưỡng.
- Có thể tiến hành bồi dưỡng GV, nghiên cứu chương trình tài
liệu, tìm hiểu tâm sinh lí và điều kiện của HS để tiến hành giảng dạy thích
hợp, có hiệu quả.
- Hướng
dẫn HS về phương pháp học tập trên lớp và tự học để nâng cao chất lượng
học tập của các em. Vì vậy, việc dạy học của moi GV cần có sự vận dụng thích
hợp các yếu tố đầu vào theo phuơng châm “Tất cả vì HS thân yêu". Đó cũng
chính là đổi mới phương pháp dạy học.
B. Quá trình dạy và học.
GV giảng
giải, hướng dẫn, minh hoạ: Tuỳ theo mục tiêu cụ thể, nội dung bài học mà GV,
khi cần thiết thì giảng giải, trong điều kiện và nội dung thích hợp thì tổ chức
hương dẫn HS thực hành thí nghiệm theo nhóm, cũng có khi cho HS thực hiện tiết
học theo cách nêu vấn đề và giải quyết vấn đề.
HS theo
dõi, ghi chép, thảo luận và làm việc theo nhóm (thực hành, thí nghiệm) theo sự
hướng dẫn của GV. Điều quan trọng là mỗi HS đều tích cực tham gia vào quá trình
lĩnh hội kiến thức và kĩ năng qua từng tiết học, bài học đồng thời hình thành
cho mình những nét tâm lí mới và những phẩm chất của nhân cách.
Nhìn chung, hiện nay HS từ cấp THCS trở lên chưa có kĩ năng cần
thiết về nghe và ghi chép nhanh những điều cần thiết phục vụ cho việc học tập
về từng nội dung cụ thể. Việc tập luyện cho HS tự ghi chép bài học là việc làm
có tính sư phạm cao, trước hết thuộc về sự hướng dẫn của GV và tính sư phạm
trong việc giảng dạy của GV.
Đã từ lâu trong nhà trường có quan niệm và cách ứng xử khá phổ
biến, đó là “Chỉ đạo, quản lí, đánh giá như thế nào thi dạy như thế" và
“thầy dạy như thế nào thì trò học như thế*'. Nói về dạy và học cũng là nói đến
kiểm tra đánh giá và thi cử. Một nền học vấn như thế vẫn cón chịu ảnh hưởng
nhiều bởi quan điểm “ứng thí".
Việc kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của HS luôn tác động mạnh đến hoạt động học của HS nên
trong quá trình giảng dạy và kiểm tra, đánh giá HS thì GV nên nghiên cứu kĩ và
có câu trả lời tuờng minh cho các câu hỏi sau:
- HS học môn học cụ thể mà minh dạy để làm gì (vị trí của môn
học trong mục tiêu giáo dục cụ thể).
- Qua môn học cụ thể đó HS cần lĩnh hội được điều gì về kiến
thức, kĩ năng và thái độ, trong đó điều gì HS cần phải ghi nhớ (không nhiều)
điều gì cần hiểu, kĩ năng cần hình thành và thái độ cần có đổi với môn học.
Bằng phương pháp nào để lĩnh hội các nội dung cơ bản, tối thiểu
đã xác định, đáp ứng chuẩn quy định.
Nhiều nhà chuyên môn đã nghiên cứu và phát hiện được điều rất
đáng quan tâm: Những người thành đạt trong nghề (các ngành nghề khác nhau)
thường trong quá trình lao động, đối với họ, những kiến thức học trong nhà
trường chỉ vận dụng và có tác dụng trực tiếp khoảng 15% , còn khoảng 05% là
những kiến thức và kĩ năng học tập rèn luyện bằng con đuờng tự học trong quá
trình chuẩn bị vào nghề và chính trong quá trình hành nghề (trong đó những “kĩ
năng mềm" là yếu tố rất quan trọng).
b.Xu hướng dạy
học hiện nay mà GV và các nhà trường quan tâm là quá trình tổ chức cho HS thực
hiện hoạt động học - dạy học hướng phát huy tính tích cực của HS, điều mà từ
khi Bác Hồ phát động phong trào thi đua “Hai tốt" (năm học 1961 - 1962)
nhà giáo thường thực hiện theo phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu".
Phương pháp dạy
học hiện nay có thể khái quát là “Thầy tổ chức - Trò hoạt động", cũng có
thể quan niệm là “Thầy thiết kế - Trò thi công". Theo phương pháp này, GV
trong quá trình giảng dạy hương dẫn HS học tập luôn chú ý đến tính tích cực
hoạt động và lợi ích của HS (mục tiêu học tập cụ thể); các em HS được tham gia
tìm hiểu thu nhận kiến thức cơ bản, hình thành kĩ năng và lĩnh hội phuơng pháp
học tập, phương pháp tự học ở cấp độ HS THCS, cấp độ phổ cập.
ĐÁNH GIÁ
Bạn hãy chia sẻ với đồng nghiệp để thực hiện một số yêu cầu sau:
1.
1. Làm rõ bản chất của nghề dạy học ở THCS.
2. Thực hành giảng dạy theo công nghệ dạy
học (đổi mới phương pháp) từ thiết kế bài đến trực tiếp thực hiện,
ít nhất 1-2 tiết dạy.
3. Đề xuất biện pháp đổi mới đánh giá kết
quả học tập của học sinh.
1.
4. Phân tích để thấy
rõ tính khoa học và tính xã hội của chính sách xã hội, chế độ của Nhà nước đổi
với GV.
Hoạt động 3: Tìm hiểu điều kiện dạy và học ở
trường trung học cơ sở
Dựa vào hiểu biết và kinh nghiệm thực tiễn trong công tác dạy học và GD HS
THCS, bạn hãy viết ra suy nghĩ của mình để làm rõ những điều kiện dạy và học
đạt hiệu quả ở THCS theo những gợi ý sau: Yếu tố con người
1.
b. Vấn để bồi dưỡng HS giỏi, phụ đạo HS
kém.
THÔNG TIN PHẢN HỒI
1.
a. Về các yếu tố đầu vào trong công nghệ
dạy học
Điều kiện cần cho hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS,
đảm bảo sự thành công của giáo dục chính là các yếu tố đầu vào với những tiêu
chuẩn cụ thể trong công nghệ dạy học được thể hiện ở bảng 1. Dù tham gia trực
tiếp hay gián tiếp thì tất cả các yếu tố đó cũng đều có vai trò và ý nghĩa nhất
định như là điều kiện đảm bảo chất luợng dạy và học. Các yếu tố đó là:
1.
a. Về yếu tố con người
HS - nhân vật
trung tâm của nhà trường, của mọi hoạt động giáo dục và khi chuyển từ tiểu học
lên học lớp 6, lớp đầu tiên của cấp THCS thì mọi HS, ít nhất phải đạt trình độ
tối thiểu theo chuẩn kiến thức và kĩ năng các môn học (trình độ phổ cập bắt
buộc cấp Tiểu học). Từ cuối những năm 90 của thế kỉ trước, trong ngành Giáo dục
và cả xã hội đã dần dần tạo được sự đồng thuận về quan điểm coi HS là nhân vật
trung tâm của nhà trường, cũng như từ khi có phong trào thi đua Hai tốt - “Dạy
tốt - Học tốt" (từ năm học 1961 - 1962) trong GV có khẩu hiệu “Tất cả vì
HS thân yêu". Quan điểm này có thể hiểu như sau:
HS là nhân vật trung tâm của nhà truờng vì HS là mục tiêu giáo
dục (mục tiêu khái quát được ghi trong Luật Giáo dục). Nhà trường là đơn vị cơ
sở thực hiện nhiệm vụ giáo dục HS theo mục tiêu giáo dục. GV là người trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ giáo dục Hs, người giữ vị trí then chốt và có vai trò, có
tính quyết định chất lượng giáo dục, quyết định sự thành bại của giáo dục.
HS như là yếu tố đầu vào, nhân vật số một của nhà trường, đầu năm
học, nhà trường nên tiến hành khảo sát trình độ của HS lớp 6 của trường, ít
nhất là hai môn: Tiếng Việt và Toán. Kết quả khảo sát là tài liệu tham khảo để
GV và nhà truờng có dữ liệu về yếu tố đầu vào và chỉ là thông tin dành cho GV
trực tiếp dạy và ban giám hiệu, tuyệt đối không nên công bố cho HS và các bậc
cha mẹ HS biết những thông tin đó.
Các lớp khác cũng nên có sự khảo sát chất luợng và sự bàn giao
giữa GV dạy năm cũ và GV mới tiếp nhận HS mới lên lớp để GV mới có sự hiểu biết
cần thiết về HS mới của mình.
GV tuy
không còn là nhân vật trung tâm theo quan niệm cũ với công nghệ dạy học 5 bước
lên lớp, nhưng vẫn là người giữ vị trí then chốt và có vai trò quan trọng có
tính quyết định chất lượng giáo dục (chất lượng dạy và học). Để thực hiện được
sứ mệnh đặc trưng nghề day học (trồng người) của mình, GV cho dù dạy môn nào
hoặc được phân công làm việc gì cũng là người đại diện của nhà trường đến với
HS bằng cả nhân cách của mình.
Khác với GV tiểu học, GV THCS đến với HS không đơn tuyến, không
là người chịu trách nhiệm đầy đủ (toàn quyền) trong việc giáo dục HS theo mục
tiêu giáo dục đã xác định, mà cần một tập thể (nhóm) những GV dạy các môn học
khác nhau ở cùng một lớp. Họ cần có sự thống nhất và phối hợp trong giảng dạy,
giáo dục HS.
Để hoàn thành đươc sứ mệnh của mình, GV luôn phải học tập, tu
dưỡng để có phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu giảng dạy và giáo dục HS
theo tinh thần đổi mới.
Các bậc
cha mẹ là nhân vật thứ ba trong công nghệ dạy học. Tuy họ không trực tiếp tham
gia vào quá trình dạy và học của GV và HS ở trường lớp, nhưng họ có tác động
nâng cao chất lượng giáo dục con em bằng những việc làm cụ thể, như tạo điều
kiện cho con em học tập, tạo sự đồng thuận với nhà trường về quan điểm và PPGD
con em, xây dụng môi trường giáo dục gia đình lành mạnh...
Các lực lượng khác: Việc thực hiện mục tiêu giáo dục sẽ khó
thành công nếu như không huy động được nguồn lực từ các tổ chức chính trị, xã
hội, các tổ chức kinh tế (các cơ sở sản xuất, kinh doanh...) và toàn xã hội
theo định hướng xã hội hóa giáo dục.
Bản chất của xã hội hoá giáo dục là làm cho sự nghiệp giáo dục
là của mọi người, làm cho mỗi người dân dù ở cương vị nào, làm việc gì,
sống ở đâu trên đất nước Việt Nam đều ý thức được quyền được huởng thụ giáo
dục, ý thức được lơi ích của mình từ giáo dục, đồng thời cũng thấy được nghĩa
vụ, trách nhiệm của mình trong việc xây dụng phát triển giáo dục trong phạm vi
giới hạn cụ thể mà mình có và có thể có. Việc chung nhất mà ai cũng có thể làm
là bằng hành vi, lối sống cụ thể của mình, góp phần xây dựng môi trường xã hội
lành mạnh, trong đó có nhà truờng.
b. Mục tiêu giáo dục cụ thể
Mục tiêu này được hiện hình rõ ở chuẩn kiến thức và kĩ năng các
môn học, ở những yêu cầu tối thiểu và các hoạt động giáo dục, đồng thời được sư
phạm hoá thành tài liệu học tập dành cho HS dưới dạng SGK và các tài liệu học
tập khác.
Trong dạy học, mục tiêu cụ thể (chuẩn, chương trình học) là
những quy định có tính pháp quy. Tất cả các trường và mỗi GV đều phải tuân
theo. Sách giáo khoa và các tài liệu khác, đặc biệt tài liệu tham khảo là những
tài liệu được sử dụng hàng ngày nhưng GV có thể vận dung sáng tạo và có sự điều
chỉnh nhỏ nhằm đạt được chất lượng và hiệu quả trong những hoàn cảnh cụ thể của
trường mình, lớp mình phụ trách.
Mục tiêu giáo dục do Nhà nước quy định chung cho mọi HS ở tất
các địa phương trong cả nước, Theo đó là các chuẩn mực và chương trình học. Đó
là những quy định có tính pháp quy, GV không được thay đổi theo “sáng
kiến" của riêng mình. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, moi GV vẫn có hành
lang có thể thỏa mãn nhu cầu chủ động, sáng tạo trong dạy học bằng một số biện
pháp cụ thể:
Tìm hiểu đặc
điểm tâm sinh lí và hoàn cảnh của từng HS để có tác động sư phạm thích hợp.
Nghiên cứu để
hiểu thấu đáo về chuẩn kiến thức và kĩ năng môn học mình giảng dạy, nghiên cứu
nắm vững những yêu cầu tối thiểu các hoạt động giáo dục và các chuẩn mực hành
vi đạo đức lổi sống dành cho HS.
Tìm hiểu về
thiết bị dạy học mà nhà trường có để sử dụng và có kế hoạch làm đồ dùng dạy
học; hướng dẫn HS cùng làm và chuẩn bị điều kiện để thực hành, thực nghiệm.
Những việc nêu trên đều nằm trong tầm nhìn và các điều kiện mà
GV, nhà trường có thể có. Từ xa xưa trong giáo giới đã truyền tụng cho nhau
câu: “Chuẩn bị tốt là thành công một nửa". Nghề dạy học là nghề đậm tính
khoa học, công nghệ và tinh tế nên người đời thường nói là nghê có tính nghệ
thuật.
b. Cơ sở vật chất thiết bị.
Đây là điều kiện không thể thiếu trong hoạt động giáo dục. Tuy
nhiên, trong điều kiện của nước ta hiện nay vẫn còn có sự khác biệt nhiều giữa
các trường. Xây dụng trường chuẩn quổc gia là giải pháp tổng thể nhằm đảm bảo
điều kiện cho hoạt động dạy và học, trong đó có tiêu chuẩn về cơ sở vật chất -
thiết bị.
Ngoài phòng học, bàn ghế, bảng và một số điều kiện khác, ở cấp
THCS không thể thiếu thư viện, thiết bị, phòng thí nghiệm và những điều kiện
thực hành khác. Những phương tiện dạy và học này được mua sắm và tự tạo dần
cùng với quá trình phát triển của nhà trường. Cơ sở vật chất thiết bị của nhà
trường cần được sử dung, bảo quản tốt được hòan thiện từng bước.
Cơ sở vật chất - thiết bị tuy đã được cải thiện nhiều nhưng cón
có sự cách biệt khá lớn giữa trường đạt chuẩn quổc gia và những trường cón
nhiều khó khăn, nhất là ở những trường vùng sâu, vùng xa Điều này cũng có
ảnh hưởng lớn đến hoạt động dạy và học, ảnh hướng đến chất lượng giáo dục. Tuy
cũng có những thiết bị dạy học khá tổt cung cấp đến các trường, nhưng cũng có
những trường chưa đủ điều kiện để sử dung những thiết bị đó, nên đòi hỏi GV có
sự chuẩn bị để có phương án thay thế.
a. Các điều kiện khác:
Ngoài những yếu tố nêu trên cón một yếu tố khác cũng không kém
phần quan trọng, đó là tài chính (cần một khoản kinh phí nhất định để mua các
vật thí nghiệm hoặc tổ chức thực hành, đi thực tế...). Môi trường giáo dục cũng
ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động dạy và học. Trong trường học,
lớp học cần có khung cảnh sư phạm, cần có ba môi trường giáo dục lành mạnh: nhà
trường, gia đình và xã hội.
b. Mô hình trường trung học cơ sở.
Thời xưa trường học được quan niệm rất giản đơn, có thầy, có trò
có nơi che mưa che nắng, có bảng đen và bàn ghế, như thế gọi là trường học.
Trường chuẩn quổc gia là mô hình nhà trường ở trình độ phát
triển mới, từ mô hình trường chuẩn đang xây dựng ta có thể hình dung và diễn
đạt theo cách khác như ở mô hình 1.
Trong mô hình 1 có 5 yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau:
Yếu tố số 1 là HS - nhân vật trung tâm, là
mục tiêu giáo dục.
- Yếu tố thứ 2 là các
hoạt động giáo dục, cả hoạt động chính khoá và hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt
đoàn thể, hoạt động xã hội.
- Yếu tô thú 3 là hoạt
động kiêm định và đánh giá giáo dục.
- Yếu tố thứ 4 là các
nguồn lực cả về nhân lực, vật lực và tài lực. Nguồn lực giáo dục trước hết là
HS và GV. Các nguồn lực khác từ Nhà nước và từ xã hội hoá.
- Yếu tố thứ 5 là tổ
chức và quản lí giáo dục, trước hết là nhân lực quản lí, cơ chế quản lí.
- Yếu tổ thứ 6 là nội
dung và phương pháp dạy học.
- Yếu tổ thứ 7 là cơ
sở vật chất- thiết bị.
Các yếu tố trong mô hình nhà trường không xếp theo thứ tự về tầm
quan trọng mà chỉ là sự sắp xếp các thành tố theo các mối quan hệ hướng vào HS
và tạo lập một nhà trường lành mạnh.
Trong các hoạt động giáo dục (yếu tố 2) bao gồm cả các hoạt động
giáo dục và hoạt động học tập của HS và hoạt động giảng dạy của GV. Dạy học và
giáo dục là những hoạt động không đơn tuyến, không tách biệt nhau mà ở trong
nhau: giáo dục HS qua dạy học và đã dạy học thì phải giáo dục HS. Nhà giáo là
thầy dạy học chứ không phải là thơ dạy, “Dạy chữ - Dạy người" là vậy. Về
mối quan hệ giữa giáo dục và dạy học được hình dung ở mô hình 1.
b. Đối tượng học sinh giỏi và phụ đạo học sinh kém.
Việc bồi dưỡng
HS giỏi và phụ đạo HS kém là biểu hiện của quan điểm dạy học phù hợ với đối
tượng HS hay là dạy học phân hoá, mà theo phương pháp truyền thống gọi là “Dạy
học vừa sức HS" được hiễu theo nội hàm mới là phù hợp với từng đối tượng
HS.
Trên thực tế đã nhiều năm, do việc dạy của GV và kết quả học tập
của HS ở nhiều nơi còn thấp, làm cho xã hội chưa an tâm và còn nhiều lí do khác
nữa nên đã dẫn đến tình trạng “dạy thêm học thêm tràn lan tiêu cực". Ngành
Giáo dục đã phải đưa ra các biện pháp tình thế để khắc phục nhưng hiện tượng
dạy thêm, học thêm vẫn không hạn chế được như mong muốn, do ngay trong một số
biện pháp đó còn có những điểm bất hợp lí. Ví dụ như:
Việc quy định
cho GV chỉ được bồi dưỡng HS giỏi và phụ đạo HS kém, nhưng số HS thuộc hai loại
này thường ít và thường có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực (tiến bộ) hoặc
sa sút (kém đi) nên sự phân định chỉ là tương đối.
Đa số HS trong lớp thường thuộc loại học lực trung bình, các em
có nhu cầu chính đáng là vươn lên học khá, học giỏi và cần học thêm để thỏa mãn
nhu cầu chính đáng đó. Vậy mà trong quy định lại không cho phép những HS được
học thêm, như vậy là không tính đến nhu cầu chính đáng.
GV không được dạy thêm cho HS của lớp minh phụ trách. Đó là quy
định có dụng ý tốt nhằm hạn chế tiêu cực của GV trong quá trình dạy chính khoá
(các tiết dạy chính thức trên lớp), bằng cách dạy không đầy đủ nội dung quy
định còn để Lại “ẩn số" nào đó khiến HS phải học thêm thì mới đạt được yêu
cầu khi làm bài kiểm tra.
Tuy nhiên, điều này cũng là cách đối phò làm giảm đi tính sư
phạm, tính tối ưu trong dạy học. vì trong quá trình giảng dạy, GV biết được
điểm mạnh, điểm yếu của từng HS nên họ biết được các hình thức tác động (bồi
dưỡng kèm cặp) để mỗi HS phát huy được điểm mạnh, khắc phục được điểm yếu. Thêm
nữa, nếu không tự giác thực hiện thì GV vẫn có thể đối phó bằng cách đổi HS cho
nhau để dạy và việc dạy thêm vẫn cứ diễn ra mà không phát huy được tính tối ưu
sư phạm.
c. Quản lí dạy
thêm, học thêm: Trước hết và điểm cơ bản nhất vẫn là quản lí hoạt động dạy và
học chính khoá theo chuẩn kiến thức và kĩ năng được thể hiện ở chương trình,
SGK và một số tài liệu theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Học thêm là
nhu cầu chính đáng của HS, luôn diễn ra ở mọi nơi, mọi thời kì, phù hợp với chủ
trương hình thành “Xã hội học tập" và “Học suốtt đời". Thực tế ở các
trường học thường diễn ra hai loại: dạy thêm, học thêm chân chính và dạy thêm,
học thêm tràn lan tiêu cực.
Việc học thêm chân chính thể hiện nhu cầu về sự tiến bộ trong
học tập, nhu cầu đạt kết quả học tập cao hơn của các đối tương HS. Để thoả mãn
nhu cầu này, các em tự giác thu xếp thời gian, tranh thủ điều kiện mình có để
tìm cơ hội học thêm và có được sự quan tâm dạy thêm với thời lượng thích hợp,
phương pháp thích hợp với từng đối tượng HS theo kiểu “dạy bổ trơ". Việc dạy
thêm chân chính của GV thể hiện ở sự quan tâm trợ giúp các đối tượng HS theo
từng trình độ để em nào cũng có thể duy trì và nâng cao kết quả học tập theo
khả năng và điều kiện của mỗi em. Việc dạy thêm, học thêm chân chính có
điểm xuất phát từ nhu cầu của HS và vì lợi ích của HS, phù hợp với hoạt động
dạy và học, đồng thời có sự kiểm soát của nhà trường.
Để khắc phục tình trạng dạy thêm học thêm tràn lan, tiêu cực
hướng tới dạy và học tích cực cần có biện pháp quản lí thích hợp vừa đáp ứng
nhu cầu học tập của HS và các gia đình, vừa hạn chế những tiêu cực phát sinh từ
việc dạy và học đó. Trước nhất nên thực hiện một số việc cụ thể sau:
- Tường
minh hoá chuẩn kiến thức và kĩ năng các môn học, công bố rộng rãi đến từng
trường và HS.
- Xử lí
tiếp để đạt múc độ hợp lí và hoàn thiện tài liệu hướng dẫn giảm tải nội dung
chương trình học.
- Đổi mới quản lí
hoạt động dạy và học, quản lí nhà trường theo hướng tinh giản, thiết thực (bớt
đi những quy định có tính hình thức).
- Từng trường quản lí chặt chẽ lao động sư phạm của GV theo tinh
thần “Dạy tốt- Học tốt".
Tăng
cường điều kiện dạy và học trong khả năng có thể.
Chương trình giảm tải còn tiếp tực thực hiện đến sau năm 2015
nên cần được quan tâm đúng mức và đầu tư để thực hiện tốt, chắc chắn sẽ tạo lập
được sự ổn định ở mỗi trường và chất luợng giáo dục cũng sẽ được cải thiện.
c. Nghề dạy học và thâm niên sư phạm.
Dạy học ở THCS là một nghề - nghề sư phạm- nghề sở hữu công nghệ
dạy học. Từ xa xưa, người đời quan niệm “Thầy giáo già" với ý nghĩa người
thầy dạy học càng có thâm niên càng tinh thông nghề, càng có uy tín đối với xã
hội. Nghề sư phạm vào giai đoạn cuối những năm so đầu những năm 90 của thế kỉ
XX đã được Nhà nước cho được hưởng thâm niên. Sau năm 1993, do nhiều lí do nên chế
độ này không còn nữa. Năm 2011, Nhà nước ta đã xác lập lại thâm niên sư phạm
cho GV các cẩp.
Nghề giáo được hường chế độ thâm niên là hợp lí, bời lẽ:
- GV dạy
càng nhiều năm thì khả năng nghiên cứu, tìm hiểu về con người nói chung và HSs
nói riêng (hiểu H S) càng chuyên sâu hơn.
- GV dạy
học càng nhiều năm càng có điều kiện học tập, nghiên cứu để hiểu sâu rộng, nắm
vững nội dung chương trình học của HS (nâng cao trình độ chuyên môn).
- GV dạy
càng nhiều năm càng vận dụng phương pháp dạy học và biết sử dụng phuơng tiện
dạy học và đổi mới phương pháp dạy học (nâng cao trình độ
chuyên môn).
- GV dạy
học càng nhiều năm càng có nhu cầu và điều kiện học tập tu dưỡng nâng cao trình
độ văn hóa (theo nghĩa rộng), càng có kinh nghiệm và biết ứng xử có văn hoá với
HS, các bậc cha mẹ và những người có liên quan (biết đối nhân xủ thế).
- Nhìn chung, theo sự vận động có tính quy luật thể hiện ở những
đặc điểm vừa nêu thì GV dạy học càng nhiều năm thì nhân cách (phẩm chất và năng
lực) càng được hoàn thiện, đảm bảo để hoàn thành tốt nhiệm vụ nhà giáo, đảm bảo
sự thành công của giáo dục, đảm bảo chất lượng học tập của HS, lợi ích của moi
HS, của mỗi gia đình và toàn xã hội. Nhà giáo được nhận thâm niên là thể
hiện sự đánh giá thoả đáng và sự trân trọng của xã hội đối với lao động sư
phạm, đồng thời cũng là để nhắc nhở lượng tâm, trách nhiệm xã hội của GV trong
sự nghiệp trồng người.
ĐÁNH GIÁ
Bạn hãy chia sẻ với đồng nghiệp để thực hiện một số yêu cầu sau:
1.
1. Tự khảo sát đánh giá thực trạng cơ sở - vật chất thiết bị
của trường mình.
2.
2. Để xuất biện pháp khả thi xây dựng cơ sở vật chất- thiết
bị phục vụ cho hoạt động dạy và học.
3.
3. Phân tích về mò hinh trường học.
4.
4. Trình bày quan điểm của bạn về bồi dưỡng HS giỏi, phụ đạo
HS kém và vấn để dạy, học thêm.
Hoạt động 4: Tìm hiểu việc giảm tải nội dung
chương trình học dành cho học sinh trung học cơ sở
Dựa vào kinh nghiệm triển khai chương trình GD THCS, bạn hãy
viết ra suy nghĩ của mình về:
a.Sự cần thiết phải giảm tải:
b.Quản lí giảng dạy theo tinh thần giảm tải:
a.Sự cần thiết phải giảm tải:
Sau khi triển khai thực chương trình và sách giáo khoa đổi mới,
năm học 2004 - 2005, từ thực tiễn dạy và học ở các trường bộc lộ những điểm bất
hợp lí, đã gây quá tải đối với nhiều HS. Nội dung chương trình học tập dành cho
Hs là một trong những vấn để bức xúc xã hội. Tiếp tục thực hiện giảm tải nội
dung học tập dành cho HS trong năm học 2011 - 2012 và một số năm kế tiếp là cần
thiết và phù hợp, có thể nói theo cách của người xưa là “Thiên thời - địa lợi -
nhân hòa".
b. Yêu cầu giảm tải:
Về bản chất, nội dung chương trình học dành cho HS THCS không
phải là quá cao nhưng có những điểm bất hợp lí chưa thật thiết thực mà lại thực
hiện trong điều kiện còn nhiều khó khăn nên đã quá tải đối với HS cấp học
phổ cập, đặc biệt là HS vùng sâu vùng xa.
Sau khi triển khai thay sách giáo khoa (SGK) được vài ba năm,
trước tình trạng nêu trên, trong một Nghị quyết 9 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá IX đã có điểm khẳng định: “Kiên quyết giảm hợp lí nội dung chương
trình học cho phù hợp tâm sinh lí của HS cấp Tiểu học và THCS". Ngay sau
đó ngành Giáo dục đã có chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Đảng
nhưng vì những lí do khác nhau nên công việc giảm tải những năm cuối của thập
niên đầu thế kỉ XXI vẫn chưa được thoả đáng. Vào năm học 2011 - 2012, Bộ lại có
chú trương và hướng dẫn cụ thể về giảm tải nội dung chương trình học dành cho
HS phổ thông trong đó có HS cấp THCS. Đây là chủ trương đúng, cần được thực
hiện cẩn trọng, nghiêm túc. Những nội dung giảm tải theo chỉ đạo của Vụ Giáo
dục Trung học hướng vào những nội dung sau:
Những nội dung
trùng lặp ở các môn học.
Những nội dung
không thiết thực.
Những nội
dung không phù hợp với trình độ của Hs và chưa có điều kiện thực hiện. Điều
đáng chú ý là Bộ Giáo dục và Đào tạo giao cho GV quyền tự chủ hơn để có thể vận
dụng thích hợp với điều kiện cụ thể của trường mình nhằm đạt được mục tiêu, đảm
bảo theo chuẩn kiến thức và kĩ năng môn học.
C. Thực
hiện giảm tải.
Thực hiện giảm tải nội dung chương trình học dành cho HS là một
quá trình và phải đảm bảo năm học sau tốt hơn năm học trước, nghĩa là chất
lượng và hiệu quả dạy và học năm sau cao hơn năm trước để trong vài ba năm đạt
độ ổn định, lành mạnh, tân tiến để thuận lợi cho công cuộc đổi mớicăn
bản và toàn diện sau năm 20
No comments:
Post a Comment
chào bạn, nếu có bất kỳ thắc mắc nào hãy để lại ý kiến nhận xét của bạn đều rất quan trọng. tôi rất vui nếu bạn viết tiếng Việt có dấu hoặc viết bằng tiếng Anh.